Kỹ năng giao tiếp bắt đầu từ hành vi của bàn tay
Tại Nga, biểu hiện này có nghĩa là “mọi thứ đều rất ổn”, tương tự chữ “O.K.” của người Mỹ. Đối với người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ và người Hy Lạp, ngón tay cái hướng lên trên được cho là biểu tượng “của quý” của nam giới và là sự sỉ nhục.
Trong giao tiếp hàng ngày, chúng ta thường sử dụng rất nhiều hành vi, ngôn ngữ cơ thể, nhưng nguồn gốc của chúng chắc hẳn không được nhiều người biết đến. Dưới đây là 6 hành vi phổ biến nhất của con người và những câu chuyện thú vị về chúng.
Bắt tay
Bắt tay là hành vi giao tiếp có từ lâu đời và mang tính biểu tượng khi chào gặp mặt. Một cái bắt tay coi như cử chỉ chào hỏi hay thống nhất giao ước đã được sử dụng phổ biến ít nhất là từ thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên. Trong lịch sử có quan niệm cho rằng, điều đó thể hiện sự thiện chí và tình bằng hữu bởi trong tay không có vũ khí, còn trong thể thao thì đó là biểu tượng của sự công bằng và tôn trọng đối thủ. Bắt bằng tay phải có nghĩa là thống nhất giao ước, trong khi đó tay trái là thể hiện sự hủy bỏ.
Trong nhiều năm, người nắm giữ kỷ lục thế giới về bắt tay là Tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt. Ngày 01/1/1907, ông đã bắt tay với 8.513 người trong một buổi tiếp tại Nhà Trắng. Tuy nhiên, đến tháng 7/1977 thì kỷ lục đó đã bị phá vỡ bởi ông Joseph Lazaron, thị trưởng thành phố New Jersey (Mỹ), với 11.000 cái bắt tay chỉ trong một ngày.
Hình ảnh chữ V
Hình ảnh này được biết đến là nhờ Tổng thống Mỹ Richard Nixon và Thủ tướng Anh Winston Churchill. Hai vị nguyên thủ thường sử dụng cử chỉ này như biểu tượng của chiến thắng.
Cử chỉ này lần đầu tiên được các xạ thủ người Anh sử dụng sau khi giành chiến thắng trong trận đánh Agincourt năm 1415. Các cung thủ người Pháp dọa cắt đứt hai ngón tay đầu tiên dùng để giữ mũi tên khi bắn của các cung thủ người Anh.
Sau khi giành chiến thắng trước người Pháp, các cung thủ này đã giơ hai ngón tay lên để ra hiệu rằng, họ vẫn bình thường. Kể từ năm 1960, cử chỉ hai ngón tay hình chữ “V” hàng ngày vẫn được sử dụng như biểu tượng cho cho hòa bình và thiện chí.
Ngón tay cái hướng lên trên
Tại Nga, biểu hiện này có nghĩa là “mọi thứ đều rất ổn”, tương tự chữ “O.K.” của người Mỹ. Đối với người Ả Rập, người Thổ Nhĩ Kỳ và người Hy Lạp, ngón tay cái hướng lên trên được cho là biểu tượng “của quý” của nam giới và là sự sỉ nhục.
Hành vi này bắt nguồn từ các trận chiến của các đấu sĩ ở thành cổ Roma. Tại đây, người chiến thắng chờ đợi dấu hiệu này từ vị hoàng đế hoặc vị đại quan có mặt trên khán đài để xác định nên xử lý thế nào với đối thủ bị thua.
Nếu có thiện cảm thì ngón tay cái chỉ lên trên, thể hiện sự ân xá, còn không thì ngón tay cái chỉ xuống dưới và điều đó đồng nghĩa với án tử hình cho người thất bại. Tuy nhiên, còn một cử chỉ khác để thể hiện sự ân xá là đưa tay hình nắm đấm, còn án tử hình được thể hiện bằng một động tác lướt tay cắt qua cổ họng.
Chào cờ
Tập tục chào cờ trong quân đội ngày nay được bắt nguồn từ một hòn đảo của nước Anh. Trước đây trong quân đội của nhiều nước trên thế giới, cấp dưới thường chào cấp trên bằng cách cởi bỏ mũ như đã từng có trong quân đội Anh quốc.
Tuy nhiên đến thế kỷ 18-19 trang phục mũ nón của binh lính trở nên rất cồng kềnh, khiến người ta phải chuyển sang chào đơn giản hơn bằng cách chạm vào chiếc lưỡi trai của mũ.
Oẳn tù tì (Búa – Kéo – Giấy)
“Búa – Kéo – Giấy” là phương tiện giải quyết mọi cuộc tranh chấp được phổ biến khắp thế giới. Trò chơi này được phát minh bởi những vị tướng lĩnh cuối triều đại nhà Hán (Trung Quốc) và có tên gọi theo tiếng Trung là shǒushìlìng.
Giải vô địch thế giới trò chơi này hiện được tổ chức với giải thưởng khá lớn được đăng trên nhiều ấn phẩm nổi tiếng. Hiện nay đã có Liên đoàn quốc tế và quy định chính thức về môn thi đấu này.
“OK”
Có nhiều giả thuyết khác nhau về nguồn gốc ra đời của “OK”. Giả thuyết phổ biến là nó được xuất phát từ Tổng thống thứ tám của Hoa Kỳ Martin Van Buren, người đã chọn cho mình bí danh là Old Kinderhook, và trong cuộc vận động của ông năm 1840 đã sử dụng cụm từ “Old Kinderhook is OK” làm slogan quảng cáo.
Có một giả thuyết khác nữa là, biểu tượng “OK”thể hiện các chữ viết tắt của cụm từ “oll korrect” theo ngôn ngữ của một mẩu chuyện vui (viết chệch đi trong tiếng Anh của cụm từ “all correct”) trên báo Boston năm 1839.
Còn một giả thuyết tương tự nữa là, Tổng thống Mỹ Andrew Jackson đã dùng cử chỉ này khi thông qua các quyết định hành chính. Ông viết cụm từ “all correct” theo cách viết của người Đức là “oll korrekt” hoặc viết tắt lại thành chữ “OK”.
Dù sao đi chăng nữa thì đây vẫn là một trong những dấu hiệu được biết đến nhiều nhất, và người ta dễ dàng bắt gặp chữ viết tắt OK ở khắp mọi nơi từ các chương trình máy tính đến hoạt động giao tiếp hàng ngày.
Leave a Reply